Thái Nguyên là tỉnh có tỷ lệ hộ gia đình được tập huấn cao nhất (47,8%), tiếp đến là Đăk Lăk (36,1%), thanh bình (10,3%) và thấp nhất là Đồng Tháp (7,8%)
Cụ thể: Có tới 46,6% các hộ gia đình không lắp đặt che đậy cho các bộ phận chuyển động có nguy cơ gây tai nạn, 71,9% các hộ gia đình không treo các chỉ dẫn an toàn khi vận hành máy.Nhìn chung thực trạng về nhân công, thuốc và các trang thiết bị tại các trạm y tế vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu về mặt kỹ năng và chuyên môn cũng như số lượng viên chức y tế. Dân cày trồng chè, lúa, cà, phê ít người nghĩ mình có thể bị tai nạn cần lao.
000 ca tử vong do tai nạn cần lao can hệ đến nông nghiệp. 2009 đến tháng 12. Tỷ lệ hộ gia đình được tập huấn về dùng máy nông nghiệp còn rất thấp (25,5%). Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, hàng năm trên toàn thế giới có khoảng 2- 5 triệu người nhiễm độc hóa chất BVTV với khoảng 40. Đa phần đều gặp nạn Nghiên cứu thực trạng tai nạn thương tích (TNTT) trong nông nghiệp tại Việt Nam được tấn sĩ Thúy Quỳnh và cộng sự tiến hành trong thời kì từ tháng 5.
Lê An. Ở nhiều quốc gia, tỷ lệ tử vong do tai nạn cần lao trong nông nghiệp cao gấp đôi so với các ngành khác.
Cùng với hệ thống quản lý, chính sách còn chung chung, chưa có chính sách cụ thể về phòng TNTT trong nông nghiệp là một nguyên do và song song cũng là rào cản lớn cho chương trình gian TNTT. Vẫn còn chủ quan Ngoài các yếu tố “nhỏ” mà ND ai cũng mắc phải thì còn khá nhiều tai nạn can hệ tới máy nông nghiệp.
2010 tại 4 tỉnh được chọn có chủ đích, đó là: thanh bình, Đồng Tháp (trung tâm về lúa gạo), Thái Nguyên (trọng tâm trồng chè) và Đăk Lăk (trọng điểm trồng cà phê).
Tấn sĩ Thúy Quỳnh nhận định là do: “Thực hành an toàn máy của người dân chưa cao”. Tỷ lệ hộ gia đình được tập huấn về an toàn hóa chất còn chưa cao tại 4 tỉnh nghiên cứu (42,6% tại Đăk Lăk; khoảng 64% tại Thái Nguyên và Đồng Tháp; 76% tại thái hoà). Bảo hộ lao động đủ và đúng cũng là một vấn đề tồn tại ở các tỉnh nghiên cứu: 23,4% ND không được trang bị bảo hộ cần lao đủ khi phun thuốc; 28% trong số đó cho rằng bảo hộ cần lao làm vướng víu và ngăn trở các hoạt động lao động.
Số ngày nghỉ làm nhàng nhàng của các nạn nhân là 16,3 ngày. 275 hộ dân cày (ND) bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn; 50 cuộc phỏng vấn sâu được tiến hành đối với các đối tượng như cán bộ đảm nhiệm y tế lao động tuyến tỉnh, huyện và xã; cán bộ thanh tra và an toàn cần lao tuyến huyện; cán bộ hội ND tuyến huyện và xã; chủ tịch hoặc phó chủ toạ xã; và người nhà của nạn nhân bị TNTT trong lao động nông nghiệp.
Vật sắc nhọn, ngộ độc, ngã, say nắng/nóng, động vật cắn/tấn công, tai nạn liên lạc và mang vác nặng là các duyên cớ gây TNTT cho người ND, trong đó vật sắc nhọn là duyên cớ hàng đầu gây TNTT ở cả 4 tỉnh.
Hệ thống y tế tuyến xã chưa đáp ứng được nhu cầu điều trị các trường hợp TNTT tại địa phương. Trong khi ND còn chủ quan thì việc hỗ trợ, giúp ND kiểm soát tai nạn cũng còn rất yếu. Thông tin về phòng chống TNTT đối với người dân còn hạn chế, nguồn cung cấp thông báo về buồng TNTT cho người dân đốn là ti vi/đài; thông báo tiếp cận sơ sài phát thanh xã và qua cán bộ y tế chiếm tỷ lệ thấp.
65,7% hộ gia đình không được hướng dẫn về an toàn dùng hóa chất bảo vệ thực vật. Kết quả cho thấy có tới ngót nghét 500 nông dân từng bị TNTT trong thời kì 1 năm trước khi được hỏi. Trong vòng 20 tháng, tiến sĩ Thúy Quỳnh và các cộng sự tham gia nghiên cứu đã phỏng vấn 6. Khoảng 3/4¾ số người bị TNTT là thu nhập chính của gia đình và TNTT đã có ảnh hưởng lớn và vừa tới kinh tế của 70% gia đình ND.
000 người tử vong, khoảng 170.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét