Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Đo lượng nước dùng trong ngành Người Việt Bốn Phương năng lượng.

Trong khi kết quả này được dựa trên một đánh giá toàn diện các dữ liệu hiện có

Đo lượng nước sử dụng trong ngành năng lượng

Và khi một danh mục đầu tư công nghệ sinh sản năng lượng của một khu vực thay đổi hoặc mở mang. Hầu hết các tài liệu giao hội vào ước tính lượng nước tiêu thụ của công nghệ năng lượng cụ thể.

Thì gánh nặng lên nguồn tài nguyên nước của địa phương thế tất cũng biến động. Tại Hoa Kỳ. Nghiên cứu này giải quyết khoảng trống tri thức bằng cách phát triển một biểu phân bố tiêu thụ nước toàn cầu duyệt y các danh mục đầu tư năng lượng cấp quốc gia.

Hiểu được nhu cầu về nước của các hệ thống năng lượng là nền tảng đối với an ninh nguồn nước do sản xuất năng lượng đòi hỏi một lượng nước ngọt đáng kể. Bằng cách đánh giá lượng nước tiêu thụ cho năng lượng theo một thang chuẩn.

Nhiên liệu hạt nhân. Các nhà nước lớn hơn cả về diện tích và quy mô kinh tế có các giá trị WCEP cao nhất. Trong khi cả hai mặt của mối quan hệ này đều rất được chú ý nhằm nâng cao hiệu quả dùng tài nguyên.

Các phân tách cấp quốc gia hoặc các khu vực về tiêu thụ nước trên một danh mục đầu tư năng lượng đầy đủ.

Tuy nhiên. Nghiên cứu ở lĩnh vực này trong tương lai có thể được tăng cường đáng kể thông qua các dữ liệu tốt hơn và vận dụng rộng rãi cơ chế thưa hợp. Có sự biến động cao về WCEP tại 158 nhà nước được đánh giá (ngả nghiêng từ gần như bằng 0 đến 12.

Tuy nhiên. Thủy điện không được tính đến trong phân tách do lượng nước thất thoát (thường được định nghĩa là sự bay hơi từ hồ chứa) chỉ một phần can hệ đến tiêu thụ năng lượng.

Với các tác động tiềm ẩn của các quyết sách về năng lượng lên an ninh nguồn nước của khu vực. Khi mà sự cạnh tranh đối với nguồn nước hữu hạn đang ngày một gia tăng trên toàn cầu. Nhịp khác để mở mang nghiên cứu bao gồm tăng độ phân giải của khu vực nghiên cứu. Các nhà nước là các nhà sản xuất năng lượng hóa thạch và năng lượng sinh vật học lớn có cường độ tiêu thụ nước cho sinh sản năng lượng lớn hơn.

Một ước tính rõ ràng về lượng nước tiêu thụ cho các danh mục đầu tư năng lượng quốc gia đầy đủ ở quy mô toàn cầu này hiện vẫn chưa có. Chỉ số WCEP là một ước lượng tiêu thụ nước ngọt trên toàn bộ các loại năng lượng.

Tổng quan về các kết quả toàn cầu của việc đánh giá WCEP được cung cấp dưới dạng bản đồ trong hình dưới đây. Trong khi nhu cầu nông nghiệp chi phối nhu cầu tổng thể về nước ở nhiều khu vực của thế giới. 11/11/2013 Các bài cùng chủ đề:. Trong khi đó. Nhiên liệu sinh vật học đòi hỏi rất nhiều nước mà bất cứ quyết định sinh sản nào cũng có ảnh hưởng quan yếu đến tiêu dùng nước.

Về WCEP ước tính theo bình quân đầu người

Đo lượng nước sử dụng trong ngành năng lượng

Nhiên liệu hạt nhân và nhiên liệu sinh vật học) cũng như sinh sản điện (nhiệt điện và các công nghệ năng lượng tái hiện). Sự phân chia nhu cầu nguồn nước dựa vào nông nghiệp và năng lượng cũng không đơn giản vì nhiều loại cây trồng đang được chuyển đổi thành nhiên liệu sinh vật học ở nhiều vùng.

Bao gồm cả dịch vụ an ninh nguồn nước về kiểm soát lũ. Phần lớn các đập nước phục vụ nhiều mục đích khác nhau. Đúng như dự đoán. Ngay cả ở các quốc gia thiếu nguồn cung cấp nước.

Tỷ lệ nước dành cho nông nghiệp (40%) và nước để làm mát các nhà máy nhiệt điện (39%) là tương đối thăng bằng. Các kết quả nghiên cứu ước lượng WCEP toàn cầu vào khoảng 45 tỷ mét khối nước mỗi năm. Nước cấp thiết trong sản xuất năng lượng và năng lượng song song cũng cần trong xử lý và luân chuyển nguồn nước – một mối quan hệ tương tác.

Hoặc một phân tách toàn cầu lượng nước tiêu thụ trên một loại năng lượng. Xác định thiên hướng WCEP theo thời kì. 6 tỷ mét khối). Nhiên liệu sinh vật học và sản xuất điện. Đương nhiên. Các nhà hoạch định chính sách sẽ hiểu rõ hơn và theo dõi tình trạng của hệ thống song song này (nguồn nước-năng lượng).

Theo Bạch Dương/Văn Hiến. Thì việc cân bằng nhu cầu nước trên nhiều lĩnh vực trong khi vẫn bảo vệ được hệ sinh thái ngày càng trở thành quan trọng.

Lượng nước tiêu dùng cho hệ thống năng lượng phi thủy điện Lượng nước tiêu thụ của ngành năng lượng đã đổi thay đáng kể do các công nghệ được vận dụng trong khai hoang nhiên liệu và chế biến (nhiên liệu hóa thạch.

Nghiên cứu này đóng góp một tập kết của các số liệu được phát triển nhằm tả các điều kiện căn bản của hệ thống năng lượng-nước tổng hợp. Những kết quả này cho thấy rằng các yêu cầu kinh tế để phát triển các nhiên liệu hóa thạch dẫn tới chỉ số WCEP cao hơn.

Và khám phá các phương pháp tiếp cận chính sách mới để quản lý WCEP một cách hiệu quả.

Thì nhu cầu về nước từ ngành năng lượng có thể coi là một đối thủ cạnh tranh lớn. Nghiên cứu được giới thiệu dưới đây giao hội vào nhu cầu về nước của ngành năng lượng và các vấn đề liên can tới an ninh quốc gia về nước. Bao gồm cả nhiên liệu hóa thạch. Sau đó họ có thể đặt ra đích giảm thiểu tiêu thụ nước hoặc ít ra là hiểu một số tác động tới nguồn nước của những sáng kiến năng lượng nhất định.

Việc áp dụng các thước đo để đánh giá áp lực về nước của các danh mục đầu tư năng lượng quốc gia chưa được phát triển toàn diện. Chỉ số tiêu thụ nước để sản xuất năng lượng (WCEP) được xác định và tính toán để định lượng lượng nước tương đối được dùng ở 158 hệ thống năng lượng quốc gia.

Trữ nước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét